Tác động của vốn lưu động quản lý trên lợi nhuận của công ty đã là chủ đề của nhiều nghiên cứu và các lý thuyết thực nghiệm trong nhiều năm tại nhiều quốc gia khác nhau. Nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa tiền mặt chuyển đổi chu kỳ và lợi nhuận cho rằng tiền mặt chuyển đổi chu kỳ dài hơn sẽ có xu hướng giảm lợi nhuận (Samiloglu và Demirgunes, 2008). Có nghĩa là giảm đầu tư vốn lưu động sẽ tác động tích cực trên lợi nhuận của công ty bằng cách giảm tỷ lệ của ngắn - hạn tài sản trong tổng tài sản. Hầu hết các nghiên cứu trong lĩnh vực này cho thấy rằng công ty có thể tăng lợi nhuận của mình bằng cách rút ngắn chu kỳ chuyển đổi tiền mặt, bởi vì họ đã tìm thấy một mối quan hệ đáng kể tiêu cực cao giữa các biến hai.Trong châu Âu và Bắc Mỹ, Shin và Soenen (1998) sử dụng Net thương mại chu kỳ (NTCi) như là một biện pháp quản lý vốn ròng trong nghiên cứu của họ và họ tìm thấy một mối quan hệ tiêu cực giữa biên mạng hoạt động chu kỳ của công ty và lợi nhuận. Deloof (2003) sử dụng chu kỳ chuyển đổi tiền mặt (CCC) như là một biện pháp quản lý vốn lưu động cho một mẫu 1.009 Bỉ không công ty tài chính trong giai đoạn 1992-1996 và cũng có mối quan hệ tiêu cực giữa lợi nhuận gộp và hoạt động khoản phải thu bộ sưu tập thời gian, thời gian hàng tồn kho và khoảng thời gian thanh toán. Lazaridis và Trifonidis (2006) cũng tìm thấy một mối quan hệ tiêu cực giữa CCC và tổng lợi nhuận trên một mẫu 131 công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Athena trong giai đoạn 2001-2004. Garcia, Martins và Brandao (2011) đã nghiên cứu 2,974 không tài chính công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán 11 tại châu Âu trong 12 năm từ năm 1998 đến năm 2009. Bằng cách sử dụng hồi qui GLS và OLS họ thấy rằng có một mối quan hệ đảo ngược giữa CCC và tổng lợi nhuận hoạt động, có nghĩa là công ty có thể tăng lợi nhuận bằng cách giảm giai đoạn đang nắm giữ vốn lưu động. Enqvist, Graham, và Nikkinen (2012) sử dụng một bảng dữ liệu mẫu bao gồm các doanh nghiệp Phần Lan 1.136 niêm yết trên Nasdaq OMX Helsinki Stock Exchange từ năm 1990 đến năm 2008. Họ khẳng định rằng quản lý hiệu quả vốn lưu động là cần thiết và đóng một vai trò quan trọng trong quản trị doanh nghiệp hoạt động và do đó nó nên được bao gồm trong kế hoạch tài chính của công ty.Ở Châu á, Nobanee, Abdullatif và Al Haijjar (2009) ở Nhật bản hoặc Azhar và Noriza (2010) ở Malaysiacũng tìm thấy mối quan hệ tương tự giữa chu kỳ chuyển đổi tiền mặt và lợi nhuận của công ty. VijayKumar (2011) học tại Ấn Độ hoặc Mansoori và Muhammad (2012) cũng tìm thấy kết quả tương tự.Tại Việt Nam, đồng, Huynh Phuong và Jyh-Tây Su (2010) nghiên cứu mối quan hệ giữa tiền mặt chuyển đổi chu kỳ và lợi nhuận, được đo theo tỷ lệ lợi nhuận gộp hoạt động trên một công ty 130 mẫu được liệt kê trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2006-2008. Các tác giả cũng đã tìm thấy một mối quan hệ mạnh mẽ giữa lợi nhuận và các chu kỳ chuyển đổi tiền mặt, chỉ ra rằng Hội đồng quản trị có thể làm tăng giá trị cổ đông bằng cách xác định chu kỳ chuyển đổi thích hợp tiền mặt và duy trì mỗi thành phần của chu kỳ này ở mức tối ưu.Tóm lại, tất cả các nghiên cứu này có xu hướng để chỉ ra rằng quản lý vốn có một tác động tiêu cực về lợi nhuận của công ty.
đang được dịch, vui lòng đợi..
