Đảm bảo TCP Cả TCP hay UDP cung cấp bất kỳ mã hóa các dữ liệu mà quá trình gửi đi vào ổ cắm của nó là cùng một dữ liệu đi qua mạng đến quá trình đích. Vì vậy, ví dụ, nếu quá trình gửi sẽ gửi một mật khẩu ở dạng cleartext (tức là, không được mã hóa) vào ổ cắm của nó, mật khẩu dạng cleartext sẽ đi qua tất cả các liên kết giữa người gửi và người nhận, có khả năng nhận được ngửi và phát hiện tại bất kỳ liên kết can thiệp. Bởi vì sự riêng tư và các vấn đề bảo mật khác đã trở nên quan trọng đối với nhiều ứng dụng, cộng đồng Internet đã phát triển một nâng cao cho TCP, gọi là Secure Sockets Layer (SSL). TCP-enhanced-với-SSL không chỉ làm mọi thứ mà truyền thống TCP không nhưng cũng cung cấp các dịch vụ bảo mật quá trình-to-quá trình quan trọng, bao gồm cả mã hóa, tính toàn vẹn dữ liệu, xác thực và điểm kết thúc. Chúng tôi nhấn mạnh rằng SSL không phải là một giao thức truyền tải Internet thứ ba, trên mức độ tương tự như TCP và UDP, nhưng thay vào đó là sự tăng cường của TCP, với những cải tiến được thực hiện ở lớp ứng dụng. Đặc biệt, nếu một ứng dụng muốn sử dụng các dịch vụ của SSL, nó cần phải bao gồm mã SSL (hiện tại, thư viện tối ưu hóa cao và các lớp học) trong cả hai máy khách và máy chủ bên trong ứng dụng. SSL có ổ cắm API riêng của mình mà là tương tự như các ổ cắm TCP API truyền thống. Khi một ứng dụng sử dụng SSL, quá trình gửi dữ liệu đi cleartext với ổ cắm SSL; SSL trong các máy chủ gửi sau đó mã hóa dữ liệu và chuyển dữ liệu được mã hóa đến các socket TCP. Các dữ liệu được mã hóa truyền qua Internet để các socket TCP trong quá trình tiếp nhận. Các ổ cắm tiếp nhận qua các dữ liệu được mã hóa SSL, mà giải mã dữ liệu. Cuối cùng, SSL chuyển dữ liệu qua ổ cắm cleartext SSL của nó đến quá trình tiếp nhận. Chúng tôi sẽ giới thiệu SSL trong một số chi tiết trong Chương 8.
đang được dịch, vui lòng đợi..