Các nền tảng của quản trị doanh nghiệp ngày trở lại vào thế kỷ 19 khi luật doanh nghiệp nhà nước tăng cường các quyền của hội đồng nghiệp mà không cần sự đồng thuận của các cổ đông. Họ đã làm điều đó để đổi lấy lợi ích theo luật định như quyền thẩm định để làm cho quản trị doanh nghiệp hiệu quả hơn. Các cuộc tranh luận đầu đi lên sau khi tăng các vấn đề về cơ quan, trong đó phát ra từ tách quyền sở hữu và kiểm soát. Gần đây quản trị doanh nghiệp trở thành một chủ đề nóng trong quang phổ rộng của người dân, chính phủ, ngành công nghiệp, hoạt động, giám đốc, nhà đầu tư, cổ đông, các viện nghiên cứu và các tổ chức quốc tế để ít nhất, nhưng một vài. Hôm nay trên thế giới đã nhìn thấy rằng tính minh bạch tổ chức, công khai tài chính, độc lập tự chủ, kích thước bảng, thành phần hội đồng quản trị, ban hội đồng quản trị, hội đồng quản trị và sự đa dạng trong khác là nền tảng của thông lệ quản trị tốt. Các biến này trong các chương trình nghị sự chính của hầu hết các cuộc họp và hội nghị trên toàn thế giới bao gồm cả Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển (OECD).
Với mục tiêu cuối cùng của hầu hết các doanh nghiệp là tối đa hóa các cổ đông ' sự giàu có; nó không thể phủ nhận rằng quản trị doanh nghiệp là một điều kiện tiên quyết để đảm bảo rằng các mục tiêu của công ty là đạt được. Kết quả là, quản trị doanh nghiệp trong quản trị doanh nghiệp nói chung và ngân hàng nói riêng đã lấy cảm hứng từ một số lượng lớn của các lý thuyết gia và nhà nghiên cứu. Trong thực tế, đã có rất nhiều sự chú ý cho những vấn đề thú vị trên nhiều cấp độ quốc gia và quốc tế.
Hơn nữa, quá trình hội nhập hiện qua hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thập kỷ qua đã được đi kèm với tăng cạnh tranh quốc tế và sự cần thiết của cấu trúc thay đổi trong ngành. Tình trạng này, trong đó đã bổ sung thêm áp lực đến lợi nhuận của ngân hàng, tạo thành một kịch bản thú vị để kiểm tra các yếu tố quyết định sự thành công từ một quan điểm quản trị công ty.
Trong văn học gần đây, cơ cấu sở hữu xuất hiện như là một yếu tố quan trọng trong quản trị doanh nghiệp có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động ngân hàng. Khi kiểm tra các mối quan hệ giữa cơ cấu sở hữu và hoạt động công ty, nghiên cứu này thường xem xét các quyền sở hữu quản lý, sở hữu cổ đông lớn, và nồng độ của cơ cấu sở hữu. Đó là tiết lộ rằng có rất ít nghiên cứu về tác động của sở hữu nhà nước về hoạt động ngân hàng, và đặc biệt là ở Việt Nam, các nghiên cứu tương tự là rất hiếm.
Như vậy, nghiên cứu này nhằm mục đích định lượng đóng góp của quản trị doanh nghiệp để thực hiện cho các ngân hàng thương mại niêm yết ở Việt Nam. Tổng quan tài liệu và nghiên cứu thực nghiệm trước đó từ nước ngoài đã được tham chiếu để phát triển một khung nghiên cứu và phát triển giả thuyết nghiên cứu liên quan đến các mối quan hệ giữa quản trị công ty và hiệu suất của ngân hàng. Chúng tôi sử dụng một mô hình hồi quy để kiểm tra tác động của năm yếu tố quản trị doanh nghiệp: (i) kích thước ban; (ii) sự hiện diện của nữ đạo diễn trong bảng công ty giám đốc; (iii) trình độ học vấn của các thành viên hội đồng quản trị; (iv) tỷ lệ sở hữu nước ngoài; . và (v) tỷ lệ an toàn vốn trên nhuận vốn như giấy ủy quyền của ngân hàng thực hiện
nghiên cứu này được tổ chức như sau: Phần 1 trình bày giới thiệu về chủ đề. Phần 2 cho các khuôn khổ lý thuyết liên quan đến quản trị doanh nghiệp trong quản trị doanh nghiệp nói chung và ngân hàng nói riêng, cũng như nền văn học liên quan trước đó. Phần 3 đề xuất các giả thuyết nghiên cứu dựa trên các nghiên cứu trước đó. Phần 4 đã kiểm tra giả thuyết nghiên cứu khác nhau dựa trên một mẫu của 15 ngân hàng thương mại được lựa chọn trong thời gian 7 năm từ 2007 đến 2013, tập dữ liệu có thể dài nhất khi nghiên cứu này được tiến hành. Cuối cùng, một số cuộc thảo luận và kết luận được giới thiệu
đang được dịch, vui lòng đợi..
