chất lượng. Trường hợp như vậy là trái ngược với các tiêu chuẩn
xét bởi Boyton et al. (2006), trong đó chất lượng kiểm toán
nên tham khảo các tiêu chuẩn cấu thành các tiêu chí và
tiêu chuẩn chất lượng thực hiện, do đó, có khoảng cách
giữa việc thực hiện kiểm toán thực tế và phù hợp
kiểm toán.
Cheng et. al. (2009) nhận xét rằng chất lượng kiểm toán là một trong
những chủ đề được thảo luận rộng rãi nhất trong nghề nghiệp của kiểm toán.
Vanstraelen (2000) cho rằng chất lượng kiểm toán là khả năng của
kiểm toán viên phát hiện và báo cáo sai sót trọng yếu trong
mẫu điều tra trong quá trình kiểm toán, hơn nữa
ông tuyên bố rằng soạn thảo công khai không chỉ đòi hỏi để
phát hiện nhưng cũng phải báo cáo nguyên liệu occuring sai sót trọng yếu.
Khi biện pháp đó, quá trình kiểm toán được
coi là hiệu quả hơn và có chất lượng cao. Đây là trong
dòng với Richard (2006) nói rằng chất lượng kiểm toán là một
sự cân bằng giữa năng lực của kiểm toán viên và
độc lập. Tầm quan trọng của thái độ độc lập của
kiểm toán viên được chỉ ra bởi Moore et al. (2006) bởi
đề cập đến một số scandal kiểm toán ở Hoa
Kỳ bao gồm trong Enron Corp. WorldCom và một số
công ty đại chúng vào năm 2001 và năm 2002 mà bỏ qua
sự độc lập và kích hoạt thất bại kiểm toán. Dựa trên previ-
đang được dịch, vui lòng đợi..