Nghiên cứu này đã kiểm tra giá và tương quan của không tự tử tự gây thương tích (NSSI) trên ba mẫu vị thành niên phi lâm sàng từ các nước khác nhau. Khảo sát được dùng cho 1.862 thanh thiếu niên (M tuổi = 15.69, SD = 0,87) từ Italy (n = 827), Hà Lan (n = 675), và Hoa Kỳ (n = 360), bao gồm cả các biện pháp của NSSI, sử dụng lập trường tiểu , nội bộ (ví dụ, các triệu chứng trầm cảm, cô đơn), và các yếu tố cá nhân (tức là, nạn nhân đồng đẳng, ưu tiên peer). Sau khi kiểm soát sự khác biệt về nhân khẩu học, xã hội, tỷ lệ tương tự của NSSI đã được tìm thấy trên ba mẫu, với khoảng 24% số thanh thiếu niên báo cáo ít nhất một tập NSSI trong năm ngoái. Hồi quy logistic đa biến cho thấy nạn nhân và cao hơn mức độ của các triệu chứng trầm cảm và cô đơn sive gia đình liên quan đến thanh thiếu niên có liên quan đồng thời với NSSI tương ở cả ba mẫu. Tuy nhiên, đa nhóm phân tích chỉ ra rằng sự kết hợp giữa NSSI và sử dụng chất thay đổi đáng fi trọng yếu trên mẫu, chỉ ra rằng NSSI liên quan rất nhiều đến việc sử dụng chất gây nghiện (ví dụ, hút thuốc lá và sử dụng cần sa thường xuyên) trong các mẫu từ Hoa Kỳ chứ không phải là các mẫu từ Hà Lan và Ý. Những phát hiện cung cấp bằng chứng về NSSI và đề xuất tương đồng cao về tỷ lệ và tương quan giữa các mẫu từ các nước khác nhau. Nghiên cứu trong tương lai xa hơn nên khám phá NSSI xuyên quốc gia.
. Giới thiệu
Không tự tử tự gây thương tích (NSSI), định nghĩa là các xã hội không thể chấp nhận, trực tiếp, phá hủy có chủ ý của các mô cơ thể của mình mà không ý định tự tử, gần đây đã được chứng minh là một hiện tượng phổ biến trong thanh thiếu niên ở một số nước phương Tây (Heath et al., 2008). Một số lượng ngày càng tăng của nghiên cứu ở Bắc Mỹ (Canada và Hoa Kỳ) (ví dụ, Ross và Heath, 2002; Laye-Gindhu và Schonert-Reichl,
2005;. Lloyd-Richardson et al, 2007) đã báo cáo rằng NSSI không chỉ liên quan rối loạn tâm thần (ví dụ, tính cách đường biên giới rối loạn, chán ăn tâm thần), mà còn liên quan đến khoảng 15% đến 20% (tức là, cộng đồng) thanh thiếu niên phi lâm sàng (Heath et al., 2008). Bằng chứng về vị thành niên tự gây thương tích (có hoặc không có ý đồ tự tử) đã được cung cấp cũng ở bên ngoài Bắc Mỹ, với các nghiên cứu được tiến hành ở châu Âu, chủ yếu ở Anh (ví dụ, Hawton et al, 2002;.. O'Connor et al,
2009) và Scandinavian nước (ví dụ, Lundh et al, 2007;... Bjärehed và Lundh, 2008), cũng như Australia (ví dụ, De Leo và Heller, 2004) và châu Á (ví dụ, Matsumoto et al, 2008)
Mặc dù số lượng ngày càng tăng của chứng cứ về tự gây thương tích, khác nhau nitions fi de và các công cụ được sử dụng trong các nghiên cứu hiện tại làm cho nó khác nha sùng bái fi- để biết mức độ thực tế của hiện tượng trên các bối cảnh văn hóa khác nhau. Speci fi biệt, trong khi nghiên cứu Bắc Mỹ tập trung vào tự gây thương tích theo định nghĩa de fi nói trên (tức là, NSSI), phần lớn các công việc được tiến hành ở châu Âu đã thông qua một cách toàn de fi định nghĩa toàn diện về nhiều hơn của tự gây thương tích (tức là, cố ý tự hại; DSH ), trong đó bao gồm các hình thức khác của các hành vi tự gây thương tích, như tự ngộ độc (ví dụ, dùng thuốc quá liều), và đặc biệt không phân biệt giữa hành vi không tự tử và tự tử (Rodham và Hawton, 2009). Tuy nhiên, nghiên cứu đã cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa NSSI và hành vi tự gây thương tích tự tử, về tỷ lệ, tương quan, cũng như các hàm, cho thấy nó quan trọng để phân biệt giữa các dạng hành vi tự gây thương tích (Nock và Favazza, 2009 ; Baetens et al,.
2011). Việc áp dụng cùng một định nghĩa fi de và phương pháp trong các mẫu từ các nước khác nhau có thể cung cấp dữ liệu so sánh góp phần mở rộng các tài liệu hiện có trên NSSI.
Cho đến nay, chỉ có ba nghiên cứu chính đã được kiểm tra tự gây thương tích giữa các nước khác nhau bằng cách sử dụng phương pháp đánh giá tương tự. Hai nghiên cứu tìm thấy sự khác biệt đáng kể giữa các quốc gia liên quan đến tỷ lệ DSH với (trẻ em và vị thành niên tự hại ở châu Âu - CASE - Nghiên cứu, Madge et al, 2008;. Portzky et al, 2008).. Tuy nhiên, bởi vì họ đã thông qua một định nghĩa fi de tự chấn thương bao gồm iors behav- tự tử (tức là, DSH), vẫn chưa rõ liệu sự khác biệt này liên quan đến NSSI hoặc, đúng hơn, đến mức độ khác nhau trong hành vi tự tử, như chứng cứ khác
nguï cuûa dường như đề nghị (Nock et al., 2008). Các nghiên cứu chỉ rằng trung cụ thể kiểm tra NSSI khắp các quốc gia cho thấy tỷ lệ mắc tương tự trong giá cước trọn đời NSSI giữa thanh thiếu niên Đức và Hoa Kỳ (25,6%
đang được dịch, vui lòng đợi..
