các ngân hàng thương mại nhà nước đã thống trị hệ thống tài chính của Việt Nam. Tính đến tháng 12 năm 2001, họ đã tổ chức 75 phần trăm tổng tài sản ngân hàng, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh đã tăng 18 phần trăm, và các ngân hàng thương mại cổ phần đại diện cho 7 phần trăm (The Banker, tháng 6 năm 2002). Bảng 3.2 cho thấy các ngân hàng thương mại nhà nước chiếm 68-83 phần trăm của tổng dư nợ cho vay trong khoảng thời gian 1994-2000. Hơn một nửa số tín dụng từ các ngân hàng thương mại nhà nước đã được mở rộng với các DNNN (Bảng 3.3). Nếu số tiền của tín dụng mở rộng cho các hộ nông dân đã được trừ từ đó đến khu vực ngoài nhà nước, số lượng kết quả sẽ cho thấy rằng chỉ có một phần nhỏ của các khoản tín dụng từ các ngân hàng com-mercial nhà nước đã được đưa ra để phi nông nghiệp tư nhân doanh nghiệp (Webster, 1999). Có ít nhất ba yếu tố có thể giải thích lý do tại sao phi nông nghiệp các doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam đã không nhận được nhiều sự tín dụng từ các ngân hàng thương mại nhà nước: (i) cho vay gov-phủ hướng có lợi cho doanh nghiệp nhà nước, (ii) các vấn đề thông tin của ngân hàng đối với doanh nghiệp tư nhân, và (iii) các thủ tục cho vay rườm rà và yêu cầu collat-Eral (Webster, 1999).
đang được dịch, vui lòng đợi..
