HÀM Ý TRONG HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾPI. ĐẶT VẤN ĐỀĐối với nhiều nhà ngôn ngữ dịch - HÀM Ý TRONG HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾPI. ĐẶT VẤN ĐỀĐối với nhiều nhà ngôn ngữ Việt làm thế nào để nói

HÀM Ý TRONG HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾPI. Đ

HÀM Ý TRONG HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đối với nhiều nhà ngôn ngữ học, khái niệm “hàm ý trong hoạt động giao tiếp” là một trong những khái niệm trung tâm trong dụng học. Một hàm ý chắc chắn là một ví dụ nghiêm chỉnh cho hiện tượng cái được thông báo là nhiều hơn cái được nói ra. Cũng đối với chính những nhà ngôn ngữ học này, một khái niệm trung tâm khác trong dụng học là sự khảo sát việc các phát ngôn thực hiện các hành động, hiện tượng này được gọi chung là hành động nói.
II. NỘI DUNG
1.Cộng tác và hàm ý
Chúng ta đã thừa nhận rằng người nói và người nghe cùng tham dự vào cuộc thoại nhìn chung là có cộng tác với nhau. Chẳng hạn, để việc quy chiếu thành công, thì điều được đặt ra là cần thiết phải có sự hợp tác. Trong việc tiếp nhận những tiền giả định của người nói, người nghe thường phải thừa nhận rằng người nói ra “my car” (“chiếc xe của tôi”) là người thực tế đang cố chiếc xe đang được nhắc đến đó, và ngưòi đó không cố đánh lừa người nghe. Thứ ý nghĩa này của sự hợp tác chỉ giản đơn là thù ý nghĩa trong đó người tham gia đối thoại thường không bị coi là đang cố làm lu mờ, đánh lừa, che giấu tin thích hợp đối với nhau. Trong nhiều hoàn cảnh, kiểu hợp tác như thế chỉ là điểm khởi đầu cho việc tạo nghĩa của cái được nói ra.
Vào giữa giờ ăn trưa, một người đàn bà hỏi một người đàn bà khác rằng tại sao chị ta lại thích món thịt băm viên mà chị ta đang ăn, và nhận dược câu trả lời trong [1].
[1]
A hamburger is a hamburger.
(Thịt băm viên là thịt băm viên mà.)
Xét từ góc nhìn thuần tuý lôgic, thì sự lặp lại trong [1] có vẻ không có giá trị thông báo vì nó chỉ diễn đạt một cái gì đó theo lối phức tạp một cách hiển nhiên. Ví dụ nêu ở [1] và những cách nói rõ ràng vô nghĩa như 'business is business' ('kinh doanh là kinh doanh') hoặc 'boys will be boys" (“con trai thì sẽ là con trai”), được gọi là lặp thừa (tautologies). Nếu chúng được dùng trong một cuộc thoại, thì rõ ràng là người nói cố ý thông báo nhiều hơn là cái được nói ra.
Khi người nghe họ nghe lời diễn đạt trong [1], chị ta trước hết phải nắm được là người nói đang cùng cộng tác và có chủ định thông báo một điều gì đó. Cái điều gì đó ấy phải là nhiều hơn chính những gì mà nghĩa của các từ cung cấp cho. Đó là thứ ý nghĩa phụ thêm được chuyển tải, được gọi là hàm ý (implicature). Để trình bày [1], người nói chắc rằng người nghe sẽ có đủ năng lực làm bộc lộ ra được cái hàm ý đã được chủ định nêu ra trong ngũ cảnh đó, trên cơ sở những gì dã biết.
Với cơ hội để đánh giá món thịt băm viên đó, người nói lời [1] đã trả lòi mà không đánh giá. Vì vậy, một hàm ý là chị ta không có ý kiến gì, là ngon hay dở, để mà diễn đạt. Căn cứ vào những phương diện khác của ngữ cảnh, các hàm ý phụ (chẳng hạn như người nói nghĩ rằng tất cả các thứ thịt băm viên đều là thế cả) có thể được suy ra.
Hàm ý là những ví dụ đầu tiên cho hiện tượng cái được thông báo là nhiều hơn cái được nói ra, nhưng để giải thích được chúng, thì trước hết phải thừa nhận rằng có một nguyên tắc cộng tác cơ bản nào đó đang hoạt động.
2. Nguyên tắc cộng tác
Hãy xem xét ngữ cảnh giao tiếp sau đây. Một người đàn bà ngồi trên một chiếc ghế ở công viên và một con chó thân dài nằm đối diện vớii chiếc ghế. Một người đàn ông tiến đến và ngồi xuống ghế.
[2] Man: Does your dog bite ?
Ngưòi đàn ông: Chó nhà bà có cắn không nhẻ ?
Woman: No.
Người đàn bà: Không đâu.
(Người đàn ông với tay âu yếm con chó. Con chó ngoạm vào tay người đàn ông.)
Man : Ouch ! Hey ! You said your dog doesn't bite.
Người đàn ông: Ui ! Thế mà bà bảo chó nhà bà không cắn.
Woman: He doesn't bite. But that's not my dog.
Người đàn bà: Nó không cắn đâu. Nhưng đó đâu phải chó nhà tôi.
Một trong những vấn đề trong ngữ cảnh này phải xem xét là vấn đề đối với điều thông báo. Cụ thể là dường như có vấn đề ỏ chỗ cái mà người đàn ông nắm được lại là cái có nội dung thông báo nhiều hơn cái được nói ra. Đây không phải là vấn đề của tiền giả định vì cái được thừa nhận trong “your dog” (con chó của nhà bà) (tức là người đàn bà có một con chó) là chân thực đối với cả hai người nói. Vấn đề là ở chỗ cái mà người đàn ông nắm được là câu hỏi của ông ta “Chó nhà bà có cắn không nhỉ?” và câu trả lời của người đàn bà “Không đâu!”; cả hai đều dược dùng vào con chó nằm trước mặt họ. Từ góc nhìn của người đàn ông thì câu trả lời của người đàn bà cung cấp tin ít hơn mong đợi. Nói cách khác, người ta chờ đợi bà cung cấp cái tin được trình bày trong dòng cuối cùng kia. Tất nhiên, nếu bà ta nói ra cái tin ấy sớm hơn thì câu chuyện đâu có còn đáng buồn cười nữa. Để cho chuyện trở nên ngộ nghĩnh, người đàn bà cần phải đưa tin ra ít hơn chờ đợi.
Khái niệm về lượng tin mong đợi được cung cấp trong cuộc thoại chính là một phương diện trong cái ý tưởng chung hơn là những người cùng tham dự trong một cuộc thoại thì phải hợp tác với nhau. (Hiển nhiên, người đàn bà trong [2] có thể chỉ ra trên thực tại rằng con chó của bà ta không dự phần vào cuộc tương tác có cộng tác với người lạ mặt kia.) Trong nhiều cảnh huống, cái nhận được trong sự hợp tác lan tỏa rộng đến mức nó có thể dược trình bày thành một nguyên tắc cộng tác (co operative principle) của hội thoại và được chi tiết hoá trong bốn nguyên tắc thuộc bậc dưới, dược gọi là những phương châm (maxims).
Nguyên tắc cộng tác: Hãy làm cho phần đóng góp của bạn đúng như nó được đòi hỏi, đúng vào cái giai đoạn mà nó xuất hiện, bởi cái mục đích hoặc cái phương hướng đã được chấp nhận của lẩn trao đổi bằng lời mà bạn được tham dự.
Các phương châm:
Lượng:
- Hãy làm cho phần đóng góp của bạn có chứa tin như nó được đòi hỏi (đối với những mục đích hiện hữu của lần trao đổi đó).
- Không làm cho phấn đóng góp của bạn chứa nhiều tin hơn đang được đòi hỏi.
Chất: Cố gắng làm cho phần đóng góp của bạn luôn là chân thực.
- Không nói điều mà bạn tin là không chân thực.
- Không nói điều mà bạn không chứng minh thoả đáng được.
Quan hệ: Phải thích dụng (vừa hợp với việc dùng - Be relevant).
Cách thức: Phải rõ ràng.
- Tránh diễn đạt tối nghĩa.
- Tránh mơ hổ.
- Phải ngắn gọn (tránh dài dòng không cần thiết)
- Phải có thứ tự.
Nguyên tắc cộng tác (theo Grice 1975)
Điều quan trọng là phải nhận thấy rằng những phương châm này là những điều đã nắm được nhưng không trình bày ra, mà chúng ta có được trong hội thoại. Chúng ta nắm được rằng người ta thông thường sẽ cung cấp một số lượng thích đáng của tin (không giống như người đàn bà trong [2]). Chúng ta nắm được rằng họ nói điều chân thực, thích hợp và cố nói rõ ràng hết mức có thể. Vì những nguyên tắc này người ta nắm được trong sự tương tác thông thường, nên người nói ít khi kể chúng ra. Tuy nhiên, có những kiểu diễn đạt mà người nói dùng để ghi nhận rằng họ có nguy cơ là không gắn bó đầy đủ với những nguyên tắc này. Nhũng kiểu diễn đạt như thế được gọi là lời rào đón.
3. Lời rào đón
Tầm quan trọng của phương châm chỉ chất đối với việc tương tác có chịu cộng tác trong tiếng Anh có thể đo đạc được bằng số các cách diễn đạt mà chúng ta dùng để chỉ ra rằng những gì chúng ta đang nói ra đó có thể không hoàn toàn xác đáng. Lời giáo đầu trong [3a - c] và lời kết thức trong [3d] là những ghi chú để người nghe quan tâm đến tính không xác đáng của phần trình bàv chính.
[3]
a. As far as I know, they're married.
(Theo chỗ tôi biết thì họ đã lấy nhau).
b. I may be mistaken, but I thought I saw a wedding ring on her finger.
(Nếu tôi không nhầm thì tôi nhớ là tôi đã nhìn thấy một chiếc nhẫn cưới trên ngón tay cô ấy).
I'm not sure if this is right, but I heard it was a secret ceremony in Hawaii.
(Tôi không tin chắc lắm, nhưng tôi đã nghe nói đó là một đám cưói bí mật ở Ha-oai).
c. He couldn't live without her, I guess.
(Anh ta (đã) không thể sống thiếu cô ấy. tôi chắc thế).
Ngữ cảnh hội thoại cho những ví dụ ở [3] có thể là tin đồn gần nhất về một đôi vợ chồng mà những người nói này đã được biết đến. Những ghi chú cẩn trọng, hay là những lời rào đón, theo kiểu như vậy cũng có thể được dùng để chỉ ra rằng người nói có ý thức về phương châm chỉ lượng, như trong những lời giáo đầu trong [4a - c]. dược tạo ra trong quá trình người nói nhắc đến kì nghỉ gần đây của cô gái.
[4]
a. As you probably know. I am terrified of bugs.
(Chắc là anh biết, tôi chết khiếp với những ý nghĩ điên rồ đó).
b. So, to cut a long story short, we grabbed our stuff and ran.
(Đấy, để khỏi dài dòng, chúng tôi đã vổ lấy đồ đạc của chúng tôi rồi chạy thẳng).
c. I won't bore you with all the details, but it was an exciting trip.
(Tôi không muốn làm phiền anh bằng các chuyện tỉ mỉ, nhưng đó là một chuyến đi chơi thú vị).
Những yếu tố có liên quan đến tính thích hợp đã được dự kiến (lấy trong phương châm quan hệ) có thể tìm thấy trong những lời đệm xen vào giữa lời nói của người nói khi người đó nói những cái gì đó loại như “Oh, by the way” (À này, “Nè, tiện đây”), rồi kể tiếp ra những tin nào đó và kh
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Việt) 1: [Sao chép]
Sao chép!
HÀM Ý TRONG HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾPI. ĐẶT VẤN ĐỀĐối với nhiều nhà ngôn tính học, khái niệm "hàm ý trong hoạt động giao truyện" là một trong những khái niệm trung tâm trọng Scholars học. Một hàm ý chắc chắn là một ví dụ nghiêm chỉnh cho hiện tượng cái được thông báo là nhiều hơn cái được đảm ra. Cũng đối với chính những nhà ngôn tính khóa học này, một khái niệm trung tâm ông trong Scholars khóa học là sự khảo sát việc các phát ngôn thực hiện các hành động, hiện tượng này được gọi chung là hành động đảm.II. NỘI DUNG1.cộng NXB và hàm ýChúng ta đã thừa nhận rằng người đảm và người nghe cùng tham dự vào cuộc thoại nhìn chung là có về NXB với nội. Chẳng hạn, tiếng việc quy chiếu thành công, thì ban được đặt ra là cần thiết phải có sự hợp NXB. Trong việc truyện nhận những tiền giả định của người đảm, người nghe thường phải thừa nhận rằng người đảm ra "chiếc xe của tôi" ("chiếc xe của tôi") là người thực tế đang cố chiếc xe đang được nhắc đến đó, và ngưòi đó không cố đánh lừa người nghe. Thứ ý nghĩa này của sự hợp NXB chỉ giản thể là thù ý nghĩa trong đó người tham gia đối thoại thường không bị coi là đang cố làm lu mờ, đánh lừa, che giấu tin thích hợp đối với nội. Trong nhiều hoàn cảnh, kiểu hợp NXB như thế chỉ là điểm lớn đầu cho việc chức nghĩa của cái được đảm ra.Vào giữa giờ ăn trưa, một người đàn bà hỏi một người đàn bà ông rằng tại sao chị ta lại thích món thịt băm viên mà chị ta đang ăn, và nhận dược câu trả hào trong [1].[1] Một chiếc bánh hamburger là một chiếc bánh hamburger.(Thịt băm viên là thịt băm viên mà.)Xét từ góc nhìn thuần tuý lôgic, thì sự lặp lại trong [1] có vẻ không có giá trị thông báo vì nó chỉ lại đạt một cái gì đó theo lối phức tạp một cách hiển nhiên. Ví dụ nêu ở [1] và những cách đảm rõ ràng vô nghĩa như 'kinh doanh là kinh doanh' ('kinh doanh là kinh doanh') hoặc ' bé trai sẽ là chàng trai "("con trai thì sẽ là con trai"), được gọi là lặp thừa (tautologies). Nếu chúng được dùng trong một cuộc thoại, thì rõ ràng là người đảm cố ý thông báo nhiều hơn là cái được đảm ra.Khi người nghệ xây nghệ hào lại đạt trọng [1], chị ta trước hết phải nắm được là người đảm đang cùng về NXB và có hào định thông báo một ban gì đó. Cái ban quyết đó ấy phải là nhiều hơn chính những gì mà nghĩa của các từ cung cấp cho. Đó là thứ ý nghĩa phụ thêm được chuyển tải, được gọi là hàm ý (implicature). Để trình bày [1], người đảm chắc rằng người nghe sẽ có đủ năng lực làm bộc lộ ra được cái hàm ý đã được hào định nêu ra trong darkknight2511 cảnh đó, trên cơ sở những gì dân biết.Với cơ hội tiếng đánh giá món thịt băm viên đó, người đảm hào [1] đã trả lòi mà không đánh giá. Vì vậy, một hàm ý là chị ta không có ý kiến gì, là ngon hay dở, tiếng mà lại đạt. Căn cứ vào những phương diện ông của tính cảnh, các hàm ý phụ (chẳng hạn như người đảm nghĩ rằng tất đoàn các thứ thịt băm viên đều là thế đoàn) có Bulgaria được suy ra.Hàm ý là những ví dụ đầu tiên cho hiện tượng cái được thông báo là nhiều hơn cái được đảm ra, nhưng tiếng giải thích được chúng, thì trước hết phải thừa nhận rằng có một nguyên tắc về NXB cơ bản nào đó đang hoạt động.2. Nguyên tắc về NXBHãy xem xét tính cảnh giao truyện sau đây. Một người đàn bà ngồi trên một chiếc ghế ở công viên và một con chó thân 戴思杰 nằm đối diện vớii chiếc ghế. Một người đàn còn tiến đến và ngồi xuống ghế.[2] người đàn ông: Có con chó của bạn cắn?Ngưòi đàn còn: Chó nhà bà có cắn không nhẻ?Người phụ nữ: sốNgười đàn bà: Không đâu.(Người đàn còn với Tây âu yếm con chó. Con chó ngoạm vào tay người đàn còn.)Người đàn ông: Ouch! Ê! Bạn nói rằng con chó của bạn không cắn.Người đàn còn: giao diện người dùng! Thế mà bà bảo chó nhà bà không cắn.Người phụ nữ: Ông không cắn. Nhưng đó không phải là con chó của tôi.Người đàn bà: Nó không cắn đâu. Nhưng đó đâu phải chó nhà tôi.Một trong những vấn đề trong ngữ cảnh này phải xem xét là vấn đề đối với điều thông báo. Cụ thể là dường như có vấn đề ỏ chỗ cái mà người đàn ông nắm được lại là cái có nội dung thông báo nhiều hơn cái được nói ra. Đây không phải là vấn đề của tiền giả định vì cái được thừa nhận trong “your dog” (con chó của nhà bà) (tức là người đàn bà có một con chó) là chân thực đối với cả hai người nói. Vấn đề là ở chỗ cái mà người đàn ông nắm được là câu hỏi của ông ta “Chó nhà bà có cắn không nhỉ?” và câu trả lời của người đàn bà “Không đâu!”; cả hai đều dược dùng vào con chó nằm trước mặt họ. Từ góc nhìn của người đàn ông thì câu trả lời của người đàn bà cung cấp tin ít hơn mong đợi. Nói cách khác, người ta chờ đợi bà cung cấp cái tin được trình bày trong dòng cuối cùng kia. Tất nhiên, nếu bà ta nói ra cái tin ấy sớm hơn thì câu chuyện đâu có còn đáng buồn cười nữa. Để cho chuyện trở nên ngộ nghĩnh, người đàn bà cần phải đưa tin ra ít hơn chờ đợi.Khái niệm về lượng tin mong đợi được cung cấp trong cuộc thoại chính là một phương diện trong cái ý tưởng chung hơn là những người cùng tham dự trong một cuộc thoại thì phải hợp tác với nhau. (Hiển nhiên, người đàn bà trong [2] có thể chỉ ra trên thực tại rằng con chó của bà ta không dự phần vào cuộc tương tác có cộng tác với người lạ mặt kia.) Trong nhiều cảnh huống, cái nhận được trong sự hợp tác lan tỏa rộng đến mức nó có thể dược trình bày thành một nguyên tắc cộng tác (co operative principle) của hội thoại và được chi tiết hoá trong bốn nguyên tắc thuộc bậc dưới, dược gọi là những phương châm (maxims).Nguyên tắc cộng tác: Hãy làm cho phần đóng góp của bạn đúng như nó được đòi hỏi, đúng vào cái giai đoạn mà nó xuất hiện, bởi cái mục đích hoặc cái phương hướng đã được chấp nhận của lẩn trao đổi bằng lời mà bạn được tham dự.Các phương châm:Lượng:- Hãy làm cho phần đóng góp của bạn có chứa tin như nó được đòi hỏi (đối với những mục đích hiện hữu của lần trao đổi đó).- Không làm cho phấn đóng góp của bạn chứa nhiều tin hơn đang được đòi hỏi.Chất: Cố gắng làm cho phần đóng góp của bạn luôn là chân thực.- Không nói điều mà bạn tin là không chân thực.- Không nói điều mà bạn không chứng minh thoả đáng được.Quan hệ: Phải thích dụng (vừa hợp với việc dùng - Be relevant).Cách thức: Phải rõ ràng.- Tránh diễn đạt tối nghĩa.- Tránh mơ hổ.- Phải ngắn gọn (tránh dài dòng không cần thiết)- Phải có thứ tự.Nguyên tắc cộng tác (theo Grice 1975)Điều quan trọng là phải nhận thấy rằng những phương châm này là những điều đã nắm được nhưng không trình bày ra, mà chúng ta có được trong hội thoại. Chúng ta nắm được rằng người ta thông thường sẽ cung cấp một số lượng thích đáng của tin (không giống như người đàn bà trong [2]). Chúng ta nắm được rằng họ nói điều chân thực, thích hợp và cố nói rõ ràng hết mức có thể. Vì những nguyên tắc này người ta nắm được trong sự tương tác thông thường, nên người nói ít khi kể chúng ra. Tuy nhiên, có những kiểu diễn đạt mà người nói dùng để ghi nhận rằng họ có nguy cơ là không gắn bó đầy đủ với những nguyên tắc này. Nhũng kiểu diễn đạt như thế được gọi là lời rào đón.3. Lời rào đón
Tầm quan trọng của phương châm chỉ chất đối với việc tương tác có chịu cộng tác trong tiếng Anh có thể đo đạc được bằng số các cách diễn đạt mà chúng ta dùng để chỉ ra rằng những gì chúng ta đang nói ra đó có thể không hoàn toàn xác đáng. Lời giáo đầu trong [3a - c] và lời kết thức trong [3d] là những ghi chú để người nghe quan tâm đến tính không xác đáng của phần trình bàv chính.
[3]
a. As far as I know, they're married.
(Theo chỗ tôi biết thì họ đã lấy nhau).
b. I may be mistaken, but I thought I saw a wedding ring on her finger.
(Nếu tôi không nhầm thì tôi nhớ là tôi đã nhìn thấy một chiếc nhẫn cưới trên ngón tay cô ấy).
I'm not sure if this is right, but I heard it was a secret ceremony in Hawaii.
(Tôi không tin chắc lắm, nhưng tôi đã nghe nói đó là một đám cưói bí mật ở Ha-oai).
c. He couldn't live without her, I guess.
(Anh ta (đã) không thể sống thiếu cô ấy. tôi chắc thế).
Ngữ cảnh hội thoại cho những ví dụ ở [3] có thể là tin đồn gần nhất về một đôi vợ chồng mà những người nói này đã được biết đến. Những ghi chú cẩn trọng, hay là những lời rào đón, theo kiểu như vậy cũng có thể được dùng để chỉ ra rằng người nói có ý thức về phương châm chỉ lượng, như trong những lời giáo đầu trong [4a - c]. dược tạo ra trong quá trình người nói nhắc đến kì nghỉ gần đây của cô gái.
[4]
a. As you probably know. I am terrified of bugs.
(Chắc là anh biết, tôi chết khiếp với những ý nghĩ điên rồ đó).
b. So, to cut a long story short, we grabbed our stuff and ran.
(Đấy, để khỏi dài dòng, chúng tôi đã vổ lấy đồ đạc của chúng tôi rồi chạy thẳng).
c. I won't bore you with all the details, but it was an exciting trip.
(Tôi không muốn làm phiền anh bằng các chuyện tỉ mỉ, nhưng đó là một chuyến đi chơi thú vị).
Những yếu tố có liên quan đến tính thích hợp đã được dự kiến (lấy trong phương châm quan hệ) có thể tìm thấy trong những lời đệm xen vào giữa lời nói của người nói khi người đó nói những cái gì đó loại như “Oh, by the way” (À này, “Nè, tiện đây”), rồi kể tiếp ra những tin nào đó và kh
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Việt) 2:[Sao chép]
Sao chép!
HÀM Ý TRONG HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP I. ĐẶT VẤN ĐỀ With nhiều nhà ngôn ngữ học, khái niệm "hàm ý in hoạt động giao tiếp" is one in the khái niệm trung tâm in dụng học. Một hàm ý chắc chắn is an example nghiêm chỉnh cho hiện tượng cái message is more cái be nói ra. Cũng against those chính nhà ngôn ngữ học this, one khái niệm trung tâm different in dụng học is sự khảo sát việc its phát ngôn thực hiện its hành động, hiện tượng This is called chung hành động nói. II. NỘI DUNG 1.Cộng tác and hàm ý They have ta thừa nhận that người nói người nghe and cùng tham dự vào cuộc thoại nhìn chung is no cộng tác with the exclusive. Chẳng hạn, để việc quy chiếu thành công, thì điều be set ra is necessary must have sự hợp tác. Trọng việc tiếp nhận those tiền giả định of người nói, người nghe thường must be thừa nhận that người nói ra "xe của tôi" ("chiếc xe của tôi") is người thực tế đang cố chiếc xe being nhắc to that, and nguoi does not cố đánh lừa người nghe. Thứ ý nghĩa this of sự hợp tác chỉ đơn giản is thù ý nghĩa in which người tham gia đối thoại thường can bị coi is đang cố làm lu mờ, đánh lừa, che Giấu tin thích hợp against nhau. Trọng nhiều hoàn cảnh, kiểu hợp tác such as thế chỉ is điểm start cho việc tạo nghĩa của cái be nói ra. Vào Centered giờ ăn trưa, an người đàn bà hỏi one người đàn bà khác that tại sao chị ta lại thích món thịt băm viên mà chị ta đang ăn, and nhận dược câu trả lời in [1]. [1] Một bánh hamburger là một hamburger. (Thịt băm viên is thịt băm viên mà.) Xét từ góc nhìn thuần Tuy logic, thì sự lặp lại in [1] seems to be without giá trị thông báo since it chỉ diễn đạt one gì đó theo lối phức tạp one cách hiển nhiên. Ví dụ if at [1] and those cách nói rõ ràng vô nghĩa like 'kinh doanh là kinh doanh' ('kinh doanh is kinh doanh') or 'chàng trai sẽ được chàng trai "(" con trai thì will be con trai "), be gọi is lặp thừa (tautologies). If they are used in one conversations, thì rõ ràng is người nói cố ý thông báo more là cái be nói ra. Khi người nghe they nghe lời diễn đạt trong [1], chị ta trước hết must be nắm be is người nói đang cùng cộng tác and has chủ định thông báo one gì đó. Cái điều gì đó ấy must be more chính those gì mà nghĩa của words cung cấp cho. Độ is thứ ý nghĩa phụ thêm be converted tải, called is hàm ý (implicature). Để trình bày [1], người nói chắc that người nghe would have năng lực làm Bộc lộ ra được cái hàm ý has been chủ định Neu ra in ngũ cảnh which , trên cơ sở explain what dã biết. With cơ hội to đánh giá món thịt băm viên then, người nói lời [1] was trả lòi which is đánh giá. Vì vậy, a function ý is chị ta without ý kiến gì, là ngon hay dở, để mà diễn đạt. Căn cứ vào those phương diện khác of context, the hàm ý phụ (chẳng hạn such as người nói nghĩ that all thứ thịt băm viên will là thế cả) be suy ra . Hàm ý is the following example đầu tiên cho hiện tượng cái message is more cái be nói ra, but to interpret be they are, thì trước hết must be thừa nhận that has a nguyên tắc cộng tác cơ bản nào which đang hoạt động. 2. Nguyên tắc cộng tác Hãy xem xét ngữ cảnh giao tiếp sau đây. Một người đàn bà ngồi trên chiếc ghế one out công viên and a con chó thân dài be đối diện vớii chiếc ghế. Một người đàn ông tiến to and ngồi xuống ghế. [2] Man: Có con chó của mình cắn Người đàn ông: Chó nhà bà has no cắn nhé? Woman: Số Người đàn bà:. Không đâu (Người đàn ông for tay âu yếm con chó Con chó ngoạm vào tay người đàn ông).. Man: Ouch! Chào ! Bạn nói con chó của mình không cắn. Người đàn ông: Ui! . Thế mà bà bảo chó nhà bà no cắn Woman: Ông không cắn. Nhưng đó không phải là con chó của tôi. Người đàn bà: This is not cắn đâu. But which đâu phải chó nhà tôi. Một in the problem in context This must be xem xét is problem for 'điều thông báo. Cụ thể La Dương such as có vấn đề Ô Chợ cái mà người đàn ông nắm been lại là cái may contents thông báo more cái be nói ra. This does not matter of tiền giả định vì cái be thừa nhận trong "con chó của bạn" (con chó nhà bà of) (tức is người đàn bà have a con chó) is chân thực for both người nói. Vấn đề is out chỗ cái mà người đàn ông nắm be là câu hỏi of ông ta "Chó nhà bà has cắn không nhỉ?" And response of the person đàn bà "Không đâu!"; both are dược dùng vào con chó before they mặt. Từ góc nhìn of người đàn ông thì câu trả lời of người đàn bà cung cấp tin less than mong đợi. Nói cách khác, người ta chờ đợi bà cung cấp cái tin be displayed in the last line kia. Tất nhiên, if bà ta nói ra cái tin ấy sớm than thì câu chuyện đâu có còn đáng buồn cười nữa. Để cho chuyện trở be ngộ nghĩnh, người đàn bà have to đưa tin ra less than chờ đợi. Khái niệm về lượng tin mong đợi provided in conversations chính be a phương diện in cái ý tưởng chung rather than users cùng tham dự in one cuộc thoại thì phải hợp tác with the exclusive. (Hiển nhiên, người đàn bà in [2] you can specify trên thực tại that con chó of bà ta can dự phần vào cuộc interactive has cộng tác as người lạ mặt kia.) Trọng nhiều cảnh huống, cái receive in sự hợp tác lan tỏa rộng to level it possible dược trình bày into a nguyên tắc cộng tác (đồng nguyên tắc phẫu) của hội thoại and are chi tiết hoá in bốn nguyên tắc thuộc bậc dưới, dược gọi is the following phương châm (châm ngôn) . Nguyên tắc cộng tác: Hãy làm cho phần đóng góp of your wrong as it be đòi hỏi, đúng vào cái giai đoạn mà it appears, bởi cái purpose or cái phương hướng has been accepted of last trao đổi bằng lời mà you been tham dự. Các phương châm: Lượng: -. Hãy làm cho phần đóng góp of you containing tin such as it be đòi hỏi (against those purpose hiện hữu of last trao đổi đó) - Không làm cho phấn đóng góp . of your containing nhiều tin than being đòi hỏi Chất:. Cố gắng làm cho phần đóng góp of you always be chân thực. - Không nói điều mà bạn tin is zero chân thực - Không nói điều you can not chứng Minh Thoa đáng be. Quan hệ: Phải thích dụng (vừa combined with việc dùng - Hãy là có liên quan). Cách thức:. Phải rõ ràng. - Tranh diễn đạt tối nghĩa. - Tranh mơ hổ - Phải ngắn gọn (avoid dài dòng không cần thiết) - Phải has thứ tự. Nguyên tắc cộng tác (theo Grice 1975) Điều quan trọng is not got found that those phương châm This is the following điều has been nắm but not trình bày ra, mà we have been in hội thoại. We nắm be that người ta thông thường will provide a số lượng thích đáng of thiếc (do not like người đàn bà in [2]). We nắm be that they nói điều chân thực, thích hợp and cố nói rõ ràng hết level possible. Vì those nguyên tắc this người ta nắm been in sự tương tác thông thường, should người nói ít while we Kể ra. Tuy nhiên, have the following kiểu diễn đạt mà người nói used to record nhận that they have nguy cơ is not gắn bó đầy đủ for those nguyên tắc this. Nhung kiểu diễn đạt such as thế called is lời rào đón. 3. Lời rào đón Tầm quan trọng of phương châm chỉ chất against việc tương tác has chịu cộng tác in tiếng Anh có thể đo đạc be bằng số các cách diễn đạt mà we used to specify that explain what we đang nói ra which may not completely xác đáng. Lời giáo đầu in [3a - c] và lời kết thức in [3d] is the following ghi chú to người nghe quan tâm to tính can xác đáng section trình BAV chính. [3] a. Theo như tôi biết, họ đã kết hôn. (Theo chỗ tôi biết thì they have lấy nhau). B. Tôi có thể là sai lầm, nhưng tôi nghĩ rằng tôi đã nhìn thấy một chiếc nhẫn cưới trên ngón tay. (If tôi no nhầm thì tôi nhớ tôi is already nhìn thấy chiếc nhẫn cưới one trên ngón tay cô ấy). Tôi không chắc chắn nếu điều này là đúng , nhưng tôi nghe nói đó là một buổi lễ bí mật tại Hawaii. (Tôi tin chắc no lắm, but was tôi nghe nói which is one đám cưới bí mật at Ha-oai). c. Anh không thể sống mà không có cô ấy, tôi đoán. (Anh ta (đã) can not sống thiếu cô ấy. Tôi chắc thế). Ngữ cảnh hội thoại for the example out [3] may be tin đồn Recent nhất về an đôi vợ chồng mà users nói have been known. Những ghi chú cẩn trọng, hay là those lời rào đón, theo kiểu such also can be used to specify that người nói có ý thức về phương châm chỉ lượng, such as in the lời giáo đầu in [4a - c]. dược tạo ra in quá trình người nói nhắc to kì nghỉ recently of cô gái. [4] một. Như bạn có thể biết. Tôi sợ lỗi. (Chắc là anh biết, tôi chết khiếp for those ý nghĩ điên rồ đó). B. Vì vậy, để cắt một câu chuyện dài ngắn, chúng ta nắm lấy thứ của chúng tôi và bỏ chạy. (Đấy, để from a dài dòng, we have Võ lấy đồ đạc of our rồi chạy thẳng). C. Tôi sẽ không khoan bạn với tất cả các chi tiết, nhưng đó là một chuyến đi thú vị. (Tôi does not want to làm phiền anh bằng the chuyện tỉ mi, but it is Một chuyến đi chơi thú vị). Những yếu tố may related tính thích hợp have been dự kiến (getting in phương châm quan hệ) may be found in the lời đệm xen vào Centered lời nói of the person nói when it nói those cái gì đó loại such as "Oh, bằng cách này" (À this "Nè, đây tiện"), rồi next ra those tin nào which and kh






























































đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2025 I Love Translation. All reserved.

E-mail: